Khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật về tình trạng khẩn cấp

BBK- Chiều 14/3, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 43, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật Tình trạng khẩn cấp, do Bộ Quốc phòng chủ trì soạn thảo.

Đáp ứng yêu cầu thực tiễn

Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Tân Cương trình bày Tờ trình của Chính phủ cho biết, việc ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật về tình trạng khẩn cấp như: Về khái niệm tình trạng khẩn cấp để phân biệt với tình huống cấp bách; về hình thức văn bản; thẩm quyền quy định về tình trạng khẩn cấp và ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp; về các chính sách cứu trợ, hỗ trợ nhằm ứng phó trong tình trạng khẩn cấp, bảo đảm an sinh xã hội, phục hồi kinh tế…

Kể từ khi có Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp và một số luật chuyên ngành có quy định về tình trạng khẩn cấp, nước ta chưa từng ban bố tình trạng khẩn cấp. Ngay trong giai đoạn chống dịch Covid-19, mặc dù chưa ban bố tình trạng khẩn cấp nhưng một số biện pháp tương tự như biện pháp của tình trạng khẩn cấp lại được áp dụng để ứng phó với dịch.

39.jpg
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Tân Cương trình bày Tờ trình của Chính phủ. Ảnh: Quốc hội

Quá trình chống dịch Covid-19 đã mang lại nhiều bài học kinh nghiệm, đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập trong tổ chức thực hiện pháp luật về tình trạng khẩn cấp như: Cùng những tình huống xảy ra, với mức độ như nhau nhưng việc áp dụng các biện pháp chưa thống nhất giữa các địa phương; cấp có thẩm quyền chưa ban bố tình trạng khẩn cấp nhưng có địa phương đã ban hành các văn bản hành chính hạn chế quyền con người, quyền công dân; quy trình, thủ tục mua sắm trang thiết bị vật chất, công tác bảo đảm hoạt động khi có tình huống còn lúng túng.

Trong điều kiện lần đầu tiên xảy ra đại dịch lớn đã phát sinh nhiều tình huống khó khăn, vướng mắc, bất cập cần phải giải quyết ngay; trong đó có nhu cầu phải trao quyền chủ động hơn, mạnh mẽ hơn cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để quyết định kịp thời các biện pháp cần thiết, linh hoạt đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống, ngăn chặn, kiểm soát dịch bệnh...

Bên cạnh đó, cục diện thế giới đang có sự chuyển biến nhanh, phức tạp chưa từng có, theo chiều hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng lớp và phân tuyến mạnh. Tình hình thiên tai có xu thế ngày càng gia tăng, diễn biến bất thường, trái quy luật, gây ra những hậu quả nghiêm trọng, làm gia tăng các tình huống khẩn cấp về sự cố, thảm họa, đòi hỏi các quốc gia phải có các biện pháp ứng phó khẩn cấp...

Vì vậy, việc xây dựng, ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp là cần thiết để hoàn thiện hành lang pháp lý, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Luật áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, công dân nước Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế cư trú, hoạt động trên lãnh thổ nước Việt Nam.

48.jpg
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại Lê Tấn Tới. Ảnh: Quốc hội

Làm rõ thêm về căn cứ ban bố tình trạng khẩn cấp

Qua thẩm tra Tờ trình của Chính phủ, Thường trực Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật với những căn cứ chính trị, pháp lý, thực tiễn như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ.

Đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại nhất trí với tên gọi, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật; phạm vi điều chỉnh phù hợp với tên gọi và nội hàm của Luật; đồng thời Luật này không thay thế các luật chuyên ngành đang điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tình trạng khẩn cấp... phù hợp với các chính sách đã được thông qua trong đề nghị xây dựng Luật.

Thường trực Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại thấy rằng, dự thảo Luật đã cơ bản bám sát chủ trương, đường lối của Đảng nhất là các văn bản về chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia; nội dung dự thảo Luật cơ bản phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 2013 có liên quan, bảo đảm tính thống nhất với hệ thống pháp luật, tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm tính khả thi, đáp ứng các yêu cầu thực tiễn.

Một số ý kiến cho rằng, dự thảo Luật có liên quan đến nhiều quy định tại các luật hiện hành về tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát, làm rõ mối quan hệ pháp luật, phân định cụ thể phạm vi điều chỉnh giữa Luật này và các luật liên quan, hoàn thiện quy định về tình trạng khẩn cấp, đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, trong đó có các luật mới được Quốc hội thông qua.

Thường trực Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại cũng đề nghị nghiên cứu, làm rõ thêm về căn cứ ban bố tình trạng khẩn cấp để bảo đảm tính thống nhất. Việc xây dựng các căn cứ để ban bố tình trạng khẩn cấp phải đáp ứng các yếu tố khách quan và chủ quan, vượt ra ngoài cấp độ 3 phòng thủ dân sự; đồng thời cũng phải có tiêu chí để tránh áp dụng tùy tiện, gây ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.

Có ý kiến đề nghị làm rõ thêm các căn cứ, cơ sở, quy trình để các bộ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đề nghị Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng khẩn cấp; trường hợp nào thì ban bố tình trạng khẩn cấp ở địa phương, trường hợp nào là trên phạm vi cả nước, nếu ở địa phương thì khi nào ở cấp tỉnh, khi nào ở cấp thấp hơn...

94.jpg
Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương kết luận nội dung thảo luận. Ảnh: Quốc hội

Thường trực Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại cơ bản tán thành với quy định ủy quyền cho Thủ tướng Chính phủ: Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định. Tuy nhiên, để bảo đảm bảo phù hợp với Hiến pháp, đề nghị bổ sung nội dung các biện pháp này phải phù hợp với các nguyên tắc quy định tại Điều 3, đồng thời cần tiếp tục làm rõ thêm về thời điểm hiệu lực, đối tượng, các biện pháp đặc thù này để bảo đảm khả thi...

Sau khi nghe các ý kiến thảo luận, phát biểu kết luận nội dung này, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương nêu rõ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với dự án Luật do Chính phủ trình, hồ sơ dự án Luật đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9. Đồng thời, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, rà soát kỹ lưỡng các văn bản có liên quan, đảm bảo tính thống nhất, tương thích và khả thi; tiếp tục thể chế hóa chủ trương đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật.../.

Xem thêm

Video

Đọc báo in